Diễn đàn được tổ chức ngày 18/9/2025 tại Tp.HCM  trong bối cảnh Quốc hội vừa thông qua Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 70-NQ/TW về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, cùng với việc triển khai Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Đây là sự kiện quan trọng góp phần lan tỏa tinh thần đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, thúc đẩy ứng dụng công nghệ sạch, nhằm thực hiện mục tiêu phát triển năng lượng bền vững và cam kết Net Zero vào năm 2050.

Ngày 18/9 tại TP.HCM chương trình “Diễn đàn đổi mới sáng tạo năng lượng năm 2025” diễn ra với sự tham dự: Ông Phạm Việt Hồng, Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo, Bộ KH&CN, Ông Võ Tân Thành, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – VCCI, Ông Đặng Hải Dũng, Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công, Bộ Công Thương, GS. TS. Lê Minh Phương, Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Bách khoa, Ông Phạm Đăng An, P.TGĐ Vũ Phong Energy Group,Ông Phạm Đăng An, P.TGĐ Vũ Phong Energy Group,Ông Lê Quang Vịnh Giám đốc Kinh doanh, Quản lý mảng Năng lượng & Hạ tầng khu vực ASEAN / ASEAN Energy & Utilities Head, Advantech,Ông Kỳ Quang Minh – Giám đốc Nghiên cứu & Phát triển Công nghệ SolarBK, Bà Nguyễn Thị Minh Huệ Giám đốc dự án Công ty Cổ phần Tư vấn & Dịch vụ Đổi mới khí hậu KLINOVA.Tầm quan trọng của Net Zero


Tầm quan trọng của Net Zero

Khoa học cho thấy rõ ràng để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu, đồng thời bảo tồn một hành tinh có thể sống được, mức tăng nhiệt độ toàn cầu cần được giới hạn ở mức 1,5°C so với mức tiền công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã ấm hơn khoảng 1,1°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải tiếp tục tăng. Để duy trì sự nóng lên toàn cầu ở mức không quá 1,5°C – như yêu cầu trong Thỏa thuận Paris – lượng khí thải cần phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức 0 vào năm 2050.


Mặc dù hầu hết các quốc gia chỉ mới bắt đầu thực hiện các mục tiêu và chính sách về Net Zero gần đây, nhưng những chiến lược này vẫn có ý nghĩa và tác động to lớn, mang lại lợi ích cho môi trường và cộng đồng trên toàn thế giới.

Tầm nhìn đến năm 2045

Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia; thị trường năng lượng cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; ngành năng lượng phát triển đồng bộ, bền vững, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, giảm phát thải khí nhà kính và thích ứng với biến đổi khí hậu; hệ thống hạ tầng năng lượng thông minh, hiện đại, kết nối hiệu quả với khu vực và quốc tế; chất lượng nguồn nhân lực, trình độ khoa học – công nghệ và năng lực quản trị ngành năng lượng đạt trình độ ngang với các nước công nghiệp phát triển hiện đại.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự tham gia của cả hệ thống chính trị và Nhân dân trong bảo đảm an ninh năng lượng

Cấp ủy đảng và chính quyền các cấp xác định rõ phát triển năng lượng quốc gia là nhiệm vụ quan trọng, xuyên suốt, cần nghiêm túc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong ngành năng lượng; phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn, cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành Trung ương và địa phương, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành tập trung, đồng bộ, thống nhất từ Trung ương tới địa phương. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, nhất là đối với các quy hoạch năng lượng; bảo đảm chất lượng, tiến độ các dự án phát triển năng lượng.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và Nhân dân về vai trò, tầm quan trọng của an ninh năng lượng, chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển năng lượng, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.

Chú trọng tuyên truyền, nâng cao ý thức, thay đổi hành vi sử dụng năng lượng; phát động, triển khai hiệu quả các phong trào trong cộng đồng doanh nghiệp và người dân về chuyển đổi năng lượng, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả gắn với bảo vệ môi trường.

Phổ biến, nhân rộng các mô hình, giải pháp sản xuất và sử dụng năng lượng tái tạo hiệu quả, phù hợp với điều kiện của từng vùng, địa phương, nhất là các mô hình tự sản xuất, tự tiêu thụ tại doanh nghiệp, hộ gia đình, mô hình cộng đồng năng lượng; thúc đẩy phát triển mua bán điện trực tiếp cả nguồn và tải điện.

Hoàn thiện thể chế, chính sách để trở thành lợi thế cạnh tranh, nền tảng vững chắc, động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển năng lượng

Quyết tâm, quyết liệt hoàn thiện và tổ chức triển khai hiệu quả pháp luật về điện lực, dầu khí, địa chất và khoáng sản, năng lượng nguyên tử, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Rà soát, tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế trong quy hoạch, cấp phép, huy động vốn,… cho các dự án về năng lượng; có cơ chế, chính sách đặc thù vượt trội để thu hút và triển khai các dự án năng lượng quan trọng, cấp bách của quốc gia.

Hoàn thiện chính sách tài chính theo hướng huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài vào các dự án trong lĩnh vực năng lượng theo hình thức nhà đầu tư độc lập hoặc đối tác công tư (PPP). Đổi mới chính sách tín dụng theo hướng linh hoạt, hiệu quả, ưu tiên bố trí vốn tín dụng cho lĩnh vực năng lượng, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp năng lượng tiếp cận các nguồn vốn; có nguồn vốn, gói tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp có dự án năng lượng xanh, sạch, công nghệ mới, doanh nghiệp đầu tư vào hệ thống dự trữ năng lượng, nghiên cứu, phát triển và sản xuất thiết bị năng lượng trong nước.


Xây dựng khung chính sách đủ mạnh để khuyến khích các hộ sử dụng điện lớn xây dựng hệ thống thu hồi năng lượng để sản xuất điện; có cơ chế, chính sách ưu đãi hợp lý để phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ và hệ thống lưu trữ năng lượng; xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù phát triển mạnh các hệ thống xử lý rác có thu hồi năng lượng; thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ carbon thấp, trung hoà carbon. Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả.

Nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển năng lượng, đặc biệt trong ngành điện, bảo đảm tính ổn định, đồng bộ, gắn kết với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương và các ngành khác; quy hoạch năng lượng có tính mở, có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm phục vụ phát triển, phân phối hài hòa cho các ngành, lĩnh vực, vùng miền (công nghiệp, nông nghiệp, chuyển đổi số, quốc phòng, an ninh, đô thị, nông thôn, vùng sâu, vùng xa…).

Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các quy định về phát triển thị trường năng lượng đồng bộ, thống nhất, liên thông giữa các phân ngành điện, than, dầu khí và năng lượng tái tạo, kết nối với thị trường khu vực và thế giới. Xây dựng giá năng lượng minh bạch do thị trường quyết định, có sự quản lý của Nhà nước, không thực hiện bù chéo; Nhà nước điều tiết hợp lý thông qua các công cụ thị trường và thực hiện hiệu quả chính sách an sinh xã hội. Cải cách triệt để các thủ tục hành chính, cắt giảm 30 – 50% thời gian thực hiện, chi phí tuân thủ và điều kiện kinh doanh, tạo môi trường thuận lợi trong đầu tư, kinh doanh, xây dựng, vận hành các dự án năng lượng. Trong năm 2025, phải hoàn thành việc tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế cản trở sự phát triển của ngành năng lượng.

Phát triển nguồn cung và hạ tầng năng lượng, bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng

Xây dựng kịch bản, lộ trình thực hiện cụ thể bảo đảm năng lượng đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đa dạng hóa nguồn cung năng lượng, bao gồm cả nguồn trong nước và nhập khẩu. Có cơ chế ưu tiên cho việc chủ động phát triển năng lượng trong nước, giảm phụ thuộc nhập khẩu, ưu tiên tăng cường khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng trong nước.

Khẩn trương tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án năng lượng trọng điểm, đặc biệt là các dự án nguồn điện và lưới điện truyền tải; có chế tài nghiêm khắc đối với các nhà đầu tư đăng ký phát triển các dự án năng lượng nhưng chậm hoặc không triển khai làm ảnh hưởng đến an ninh năng lượng quốc gia. Tăng cường công tác chỉ đạo, đôn đốc, thanh tra, kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện các dự án đầu tư trong lĩnh vực năng lượng.

Về dầu khí: Đẩy mạnh tìm kiếm, thăm dò nhằm gia tăng trữ lượng và sản lượng khai thác dầu khí tại các khu vực tiềm năng, nước sâu, xa bờ gắn với bảo vệ chủ quyền quốc gia; nâng cao hệ số thu hồi, tận thu các mỏ nhỏ, khối sót cận biên.

Phát triển công nghiệp khí; ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật phục vụ nhập khẩu, dự trữ và tiêu thụ LNG. Xây dựng chính sách giá khí hợp lý bảo đảm hài hòa lợi ích của các bên liên quan; phát triển thị trường khí đạt khoảng 30 – 35 tỉ m3 /năm.

Tiếp tục thu hút đầu tư trong lĩnh vực lọc hóa dầu theo hướng chế biến sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm xăng dầu, đáp ứng nhu cầu trong nước và hướng đến xuất khẩu phù hợp nhu cầu thị trường và phù hợp lộ trình dịch chuyển năng lượng. Nghiên cứu, đánh giá tiềm năng dầu khí đá phiến, khí hydrate; sớm triển khai đánh giá tổng thể, đẩy nhanh khai thác thử nghiệm.

Về than: Triển khai thực hiện hiệu quả Chiến lược phát triển ngành than trong bối cảnh mới. Đẩy mạnh khai thác than trong nước bảo đảm an toàn, hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên; có cơ chế hợp lý và linh hoạt trong việc khai thác và nhập khẩu than để phục vụ nhu cầu trong nước.

Mở rộng tìm kiếm, thăm dò, nâng cao chất lượng công tác đánh giá trữ lượng và tài nguyên; khẩn trương nghiên cứu công nghệ, phương pháp thích hợp để thăm dò bể than Sông Hồng. Tăng cường cơ giới hóa, hiện đại hóa thiết bị sàng, tuyển và khai thác than. Rà soát, đánh giá nhu cầu, xây dựng kế hoạch và tối ưu hóa các giải pháp cung cấp than ổn định cho sản xuất điện phù hợp với cơ chế thị trường. Dự trữ than đáp ứng yêu cầu sản xuất, nhất là sản xuất điện.

Về năng lượng tái tạo, năng lượng mới: Ban hành, thực hiện hiệu quả các cơ chế, chính sách về tiêu chuẩn, tỉ lệ năng lượng tái tạo trong cơ cấu đầu tư và cung cấp năng lượng; triển khai thị trường Chứng chỉ năng lượng tái tạo (REC). Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các nguồn năng lượng tái tạo nhằm thay thế tối đa năng lượng hóa thạch. Ưu tiên sử dụng năng lượng gió và mặt trời; khuyến khích phát triển tại các vùng, địa phương có lợi thế.

Nghiên cứu, đánh giá tổng thể về tiềm năng và xây dựng định hướng phát triển năng lượng địa nhiệt, sóng biển, thủy triều, hải lưu…; triển khai một số mô hình ứng dụng, tiến hành khai thác thử nghiệm để đánh giá hiệu quả. Thử nghiệm mô hình sản xuất, sử dụng năng lượng hydrogen, các dẫn xuất hydrogen, amoniac; khai thác điện gió ngoài khơi, điện mặt trời gắn với sản xuất hydrogen, amoniac.

Về điện: Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành điện, tăng cường tính cạnh tranh, minh bạch và bền vững. Phát triển cân đối, hợp lý giữa các nguồn điện, bảo đảm yêu cầu cao nhất là đủ điện cho phát triển kinh tế – xã hội, từng bước thực hiện cam kết quốc tế về giảm phát thải.

Phát triển nguồn điện cân đối hợp lý theo lợi thế vùng, miền, địa phương hướng tới cân bằng cung – cầu nội vùng, giảm tối đa tổn thất truyền tải. Ưu tiên phát triển các dự án nguồn điện có công suất lớn, hiệu quả cao, thân thiện môi trường.

Hiện đại hóa hệ thống điều độ điện, áp dụng công nghệ giám sát, điều khiển kỹ thuật tự động, thông minh; bên cạnh truyền tải điện xoay chiều, nghiên cứu ứng dụng truyền tải siêu cao áp, một chiều, truyền tải ngầm dưới biển.

Đối với thủy điện: Phát huy, mở rộng tối đa công suất của các nhà máy hiện có. Tiếp tục phát triển có chọn lọc một số thủy điện nhỏ và vừa, đẩy nhanh tiến độ các dự án thủy điện tích năng. Tăng cường hợp tác phát triển thủy điện với các nước gắn với nhập khẩu điện dài hạn từ nước ngoài.

Đối với điện gió và điện mặt trời: Ưu tiên phát triển phù hợp với khả năng bảo đảm an toàn hệ thống với giá thành điện hợp lý, đặc biệt là các nguồn điện tự sản xuất, tự tiêu thụ, điện mặt trời mái nhà. Khẩn trương xây dựng chính sách tháo gỡ khó khăn, chính sách pháp lý hỗ trợ và cơ chế đột phá cho phát triển điện gió ngoài khơi; nghiên cứu, giao nhiệm vụ cho một số doanh nghiệp lớn nhà nước, tư nhân có uy tín, thương hiệu, có thực lực để thực hiện nhiệm vụ phát triển các dự án điện gió ngoài khơi quy mô lớn gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Đối với nhiệt điện: Phát triển nhiệt điện khí, ưu tiên sử dụng nguồn khí trong nước. Rà soát, lập kế hoạch triển khai nâng cấp công nghệ, nâng cao hiệu suất để đáp ứng quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường của các nhà máy điện than hiện có. Có cơ chế khuyến khích chuyển đổi nhiên liệu đối với các nhà máy nhiệt điện than.

Đối với điện đồng phát, điện tận dụng nhiệt dư, khí dư, sinh khối, rác thải và chất thải rắn: đẩy mạnh phát triển các nguồn điện từ xử lý rác thải đô thị, chất thải rắn và sinh khối; khuyến khích phát điện từ thu hồi khí dư, nhiệt dư, nước dư của các nhà máy; các loại hình nguồn điện này được phát triển không bị giới hạn bởi quy mô quy hoạch.

Đối với điện hạt nhân: Xây dựng Chương trình phát triển điện hạt nhân theo các quy mô linh hoạt và các nhà máy điện hạt nhân lắp ráp module nhỏ; đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu, phát triển công nghệ năng lượng nguyên tử, từng bước làm chủ công nghệ điện hạt nhân, bao gồm công nghệ lò phản ứng hạt nhân; lựa chọn công nghệ tiên tiến, phù hợp với điều kiện của Việt Nam, bảo đảm an ninh, an toàn tuyệt đối và tối ưu hóa hiệu quả tổng thể về kinh tế – xã hội; khuyến khích doanh nghiệp khu vực nhà nước và tư nhân tham gia phát triển điện hạt nhân module nhỏ.

Tăng cường dự trữ năng lượng chiến lược, lưu trữ năng lượng: Xây dựng và triển khai chiến lược dự trữ năng lượng quốc gia; chiến lược quản lý, sử dụng, dự trữ và bảo vệ khoáng sản chiến lược phục vụ phát triển năng lượng. Đầu tư xây dựng hệ thống kho dự trữ dầu thô, xăng dầu, khí đốt và than phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và an ninh năng lượng quốc gia cả trên đất liền và trên biển. Đầu tư xây dựng các hệ thống pin lưu trữ quy mô lớn và các loại hình lưu trữ năng lượng tiên tiến khác.

Xây dựng ngành năng lượng và phát triển công nghiệp sản xuất thiết bị năng lượng: Xây dựng các tập đoàn công nghiệp năng lượng trong nước có đủ khả năng làm tổng thầu EPC các dự án có quy mô lớn hiện đại và triển khai chiến lược phát triển công nghiệp sản xuất thiết bị năng lượng trong nước. Ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh và có thị trường tiêu thụ lớn như sản xuất thiết bị điện, thiết bị năng lượng tái tạo. Có cơ chế, chính sách đột phá thúc đẩy nghiên cứu và phát triển công nghiệp năng lượng, tăng nhanh tỉ lệ nội địa hóa và năng lực tự chủ trong toàn ngành năng lượng.

Phát triển hạ tầng năng lượng hiện đại, thông minh, bền vững, kết nối khu vực và quốc tế hiệu quả: Xây dựng và phát triển hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu năng lượng quốc gia đáp ứng yêu cầu phát triển năng lượng bền vững, hiệu quả và an toàn. Thúc đẩy xã hội hóa cơ sở hạ tầng và dịch vụ năng lượng.

Đầu tư hiện đại hóa ngành điện từ khâu sản xuất, truyền tải đến phân phối, sử dụng có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường điện; nâng cao khả năng bảo đảm an ninh mạng lưới điện và chất lượng dịch vụ điện. Phát triển hệ thống lưới điện truyền tải đồng bộ với phát triển nguồn điện, có khả năng tích hợp quy mô lớn nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới…

Đẩy mạnh tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, thực hiện linh hoạt cam kết quốc tế về giảm phát thải; thiết lập các biện pháp quản trị và ứng phó với rủi ro

Đẩy mạnh thực hiện Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn đến năm 2030 và Chương trình quản lý nhu cầu điện quốc gia. Cơ cấu lại, khuyến khích phát triển các ngành sử dụng hiệu quả năng lượng, đem lại lợi ích cao nhất về kinh tế – xã hội. Quy định cụ thể các chỉ tiêu bắt buộc về tiết kiệm năng lượng cho từng ngành, lĩnh vực và địa phương.

Đẩy mạnh cải tiến công nghệ, áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về hiệu suất năng lượng đối với thiết bị, máy móc, phương tiện giao thông và công trình xây dựng; từng bước loại bỏ thiết bị, máy móc, phương tiện hiệu suất sử dụng năng lượng thấp, phát thải môi trường cao; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư công nghệ mới, hiệu suất cao.

Nghiên cứu, hình thành quỹ về phát triển năng lượng bền vững để thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ môi trường; đẩy mạnh xã hội hóa. Có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp tự sản xuất và sử dụng năng lượng sạch.

Ứng dụng các giải pháp công nghệ năng lượng mới để đảm bảo an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường

Triển khai thực hiện đồng bộ, linh hoạt các giải pháp giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng phù hợp với tình hình phát triển đất nước và sự hỗ trợ quốc tế. Xây dựng Chương trình chuyển đổi năng lượng quốc gia; có lộ trình giảm dần sử dụng nhiên liệu hóa thạch trong sản xuất năng lượng phù hợp với cam kết quốc tế. Có phương án cho các nhà máy nhiệt điện than chuyển đổi nhiên liệu sang sử dụng khí tự nhiên, nhiên liệu sinh khối, hydrogen, amoniac,…

Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ carbon thấp và trung hòa carbon trong ngành năng lượng. Phát triển hệ thống quan trắc môi trường tự động, liên tục để giám sát chặt chẽ các thông số môi trường tại các dự án năng lượng. Tăng cường giám sát, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm về môi trường trong sản xuất và vận hành các nhà máy điện. Thúc đẩy hợp tác quốc tế trong ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường chia sẻ kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ xanh từ các quốc gia tiên tiến.

Chủ động nghiên cứu, đánh giá tác động của các công trình kênh, hồ, đập ở các quốc gia có chung dòng sông với nước ta đến việc vận hành của các nguồn điện trong nước; xây dựng kịch bản ứng phó, giải quyết các tác động cực đoan về hạn hán, thiếu nước. Chú trọng sửa chữa, nâng cấp, sử dụng lại nguồn nước các đập thủy điện, rà soát quy trình vận hành, hiện đại hóa hệ thống quan trắc, cảnh báo, bảo đảm tuyệt đối an toàn công trình và vùng hạ du.
Tập trung huy động mọi nguồn lực xã hội, khuyến khích mạnh mẽ khu vực tư nhân tham gia phát triển năng lượng

Có cơ chế, chính sách đột phá thu hút mọi nguồn lực xã hội tham gia phát triển năng lượng, bảo đảm nguồn vốn thực hiện các quy hoạch phát triển năng lượng, đặc biệt là quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Có cơ chế dành nguồn tín dụng ưu đãi hoặc bảo lãnh Chính phủ cho các dự án năng lượng quan trọng quốc gia, cần ưu tiên đầu tư, kể cả các dự án BOT điện quy mô lớn, quan trọng, cấp bách. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tăng cường huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu trong và ngoài nước. Khuyến khích doanh nghiệp, người dân tham gia đầu tư phát triển các dự án năng lượng tái tạo nhỏ và vừa, các dự án vừa sản xuất, vừa tiêu thụ năng lượng.


Phát triển thị trường điện theo hướng tăng cường tính cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả, đồng bộ với bảo đảm an ninh năng lượng; triển khai thực hiện hiệu quả cơ chế mua bán điện trực tiếp, đồng thời tăng cường quyền lựa chọn của khách hàng sử dụng điện trong việc tiếp cận và lựa chọn đơn vị cung cấp điện phù hợp với nhu cầu. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống giao dịch điện, bao gồm cơ chế hợp đồng mua bán điện (PPA) minh bạch, ổn định, dài hạn, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhà đầu tư.

Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các dự án đầu tư hạ tầng lưu trữ năng lượng như pin tích trữ, kho LNG, kho xăng, dầu cả trên đất liền và trên biển. Đổi mới cơ chế giá truyền tải điện để thu hút mạnh mẽ khu vực tư nhân đầu tư phát triển lưới điện truyền tải.
Tạo đột phá trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng

Triển khai quyết liệt, hiệu quả Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong ngành năng lượng. Tiếp tục rà soát, sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật để thúc đẩy nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ, ưu tiên chuyển giao và ứng dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ thân thiện môi trường trong lĩnh vực năng lượng. Tập trung đầu tư cho nghiên cứu và phát triển với tỉ lệ tối thiểu 2% GDP ngành năng lượng.


Tạo cơ chế thuận lợi, đủ mạnh, tự chủ cao để khuyến khích các doanh nghiệp năng lượng tăng cường đầu tư cho nghiên cứu và phát triển; thành lập các trung tâm nghiên cứu, thử nghiệm, đổi mới sáng tạo và phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia trong lĩnh vực năng lượng; thu hút 60 – 80 dự án chuyển giao công nghệ tiên tiến.

Có cơ chế cho phép các trung tâm đổi mới sáng tạo được huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân để đầu tư, hỗ trợ cho các doanh nghiệp, dự án đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực năng lượng mới, năng lượng sạch. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao các công nghệ tiên tiến, chuyển đổi số trong khai thác, sản xuất, truyền tải, phân phối và sử dụng năng lượng; nghiên cứu, phát triển công nghệ lưu trữ năng lượng. Phát triển hệ thống lưới điện thông minh, hệ thống quản lý năng lượng thông minh trong công nghiệp, giao thông và xây dựng.

Hình thành cơ chế liên kết giữa các nhà khoa học, cơ sở đào tạo với doanh nghiệp trong lĩnh vực năng lượng thông qua các chương trình khoa học và công nghệ; lồng ghép hoạt động nghiên cứu và phát triển trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển năng lượng. Xây dựng đề án đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành năng lượng, đưa vào danh mục ngành đào tạo trọng điểm. Đào tạo tối thiểu 25.000 – 35.000 kỹ sư, chuyên gia trong lĩnh vực năng lượng, đặc biệt ưu tiên cho ngành năng lượng hạt nhân. Có chính sách ưu tiên đào tạo nhân lực chất lượng cao và thu hút chuyên gia là người nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài về nước làm việc trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân, năng lượng tái tạo và năng lượng mới.
Tăng cường hợp tác quốc tế, góp phần thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững ngành năng lượng và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia

Mở rộng và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác quốc tế về năng lượng với các đối tác quan trọng trong tất cả các phân ngành, lĩnh vực. Đẩy mạnh hợp tác trong nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực cho phát triển điện hạt nhân và năng lượng mới.

Tích cực tham gia các sáng kiến, cam kết quốc tế về chuyển dịch năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính theo hướng linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước. Triển khai tích cực hiệu quả Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP).

Khẩn trương tháo gỡ các điểm nghẽn về cơ chế, chính sách trong triển khai các dự án hợp tác quốc tế liên quan đến việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, chuyển đổi năng lượng, phát triển năng lượng sạch và ứng phó biến đổi khí hậu, gắn với việc bảo vệ các lợi ích và an ninh quốc gia.

Chủ động kế hoạch nhập khẩu điện từ các quốc gia láng giềng đáp ứng nhu cầu trong nước; có cơ chế hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp trong nước đầu tư vào các dự án năng lượng ở nước ngoài, khai thác tài nguyên năng lượng để nhập khẩu về Việt Nam. Mở rộng quan hệ đối tác với các công ty đầu tư năng lượng, phát triển công nghệ tiên tiến.

Chú trọng hợp tác phát triển năng lượng với các nước láng giềng, các quốc gia tiểu vùng Mê Công mở rộng và khu vực Đông Nam Á, các nước là bạn bè truyền thống, đối tác của Việt Nam. Đẩy mạnh triển khai các cơ chế trao đổi, phối hợp với các nước trong khu vực, nhất là các nước ASEAN về an ninh năng lượng; thúc đẩy hợp tác, kết nối lưới điện ASEAN và miền Nam Trung Quốc.

Đẩy mạnh phát triển các dự án xuất khẩu điện năng lượng tái tạo sang các nước ASEAN và hợp tác quốc tế về điện hạt nhân với các nước có công nghệ tiên tiến. Chủ động, tích cực tham gia các tổ chức quốc tế về năng lượng hạt nhân, đặc biệt là IAEA. Triển khai các cam kết quốc tế trong việc nghiên cứu ứng dụng năng lượng hạt nhân cho mục đích hòa bình.

Kinh Luân
Xu hướng chăm sóc sức khỏe dự phòng thúc đẩy nhu cầu về nguồn thông tin uy tín và đáng tin cậy

Herbalife, một trong những công ty và cộng đồng hàng đầu về sức khỏe và thể chất, vừa công bố kết quả Khảo sát về sử dụng thực phẩm bổ sung có trách nhiệm tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương năm 2025, cho thấy mặc dù việc sử dụng thực phẩm bổ sung đã trở nên phổ biến tại khu vực nhưng nhiều người tiêu dùng vẫn cảm thấy thiếu tự tin khi đưa ra quyết định trong việc sử dụng sản phẩm đúng cách. Tại thị trường Việt Nam, bốn trong năm người tiêu dùng (84%) tham gia khảo sát cho biết sử dụng thực phẩm bổ sung thường xuyên, nhưng chỉ một nửa (53%) trong số đó tự tin vào khả năng của bản thân trong việc đưa ra các lựa chọn thực phẩm bổ sung có trách nhiệm. Nhưng kết quả của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương cũng tương tự khi 80% người tiêu dùng tham gia khảo sát cho biết sử dụng thực phẩm bổ sung sức khỏe thường xuyên nhưng chỉ 51% trong số đó bày tỏ sự tin tưởng vào khả năng đưa ra các lựa chọn thực phẩm bổ sung có trách nhiệm của mình.

Khảo sát được thực hiện vào tháng 5 năm 2025, tìm hiểu thái độ và hành vi của người tiêu dùng đối với việc sử dụng thực phẩm bổ sung tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Trong khảo sát, việc đưa ra các lựa chọn thực phẩm bổ sung có trách nhiệm được định nghĩa là thực hành tìm hiểu kỹ lưỡng về thành phần, chất lượng, liều dùng khuyến nghị, giới hạn tiêu thụ và khả năng phản ứng với các loại thuốc hoặc các thực phẩm bổ sung khác trước khi sử dụng sản phẩm. Cuộc khảo sát có sự tham gia của 9.000 người tại 11 thị trường, bao gồm Úc, Hồng Kông (Trung Quốc), Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Thái Lan và Việt Nam.



"Chúng tôi đã phát hiện ra những lỗ hổng kiến thức lớn về sử dụng thực phẩm bổ sung đúng cách, dẫn đến sự thiếu tự tin trong việc đưa ra lựa chọn thực phẩm bổ sung có trách nhiệm. Điểm tích cực là đa số người tiêu dùng ưu tiên sử dụng các nguồn thông tin và lời khuyên đáng tin cậy về thực phẩm bổ sung. Đây là lý do tại sao Herbalife tích cực hợp tác với nhiều tổ chức uy tín nhằm góp phần nâng cao giáo dục dinh dưỡng cho cộng đồng, sử dụng các thông tin và hướng dẫn dựa trên cơ sở khoa học để hỗ trợ việc lựa chọn thực phẩm bổ sung có ích. Chúng tôi cam kết tiếp tục hỗ trợ mọi người xây dựng một nền tảng các thói quen lành mạnh và đồng hành cùng họ trên hành trình hướng tới cuộc sống khoẻ mạnh", ông Thomas Harms- Giám Đốc Điều Hành Herbalife khu vực Châu Á Thái Bình Dương cho biết.

Lựa chọn thực phẩm bổ sung có trách nhiệm

Tại Việt Nam, các nguồn thông tin tác động nhiều nhất đến việc đưa ra quyết định sử dụng thực phẩm bổ sung là dựa trên khuyến nghị của chuyên gia chăm sóc sức khỏe (66%), dựa trên khuyến nghị của bạn bè và gia đình (41%) và dựa trên các khuyến nghị từ kết quả xét nghiệm máu (39%).

Theo nhóm tuổi, thế hệ Millennials là nhóm có khả năng sử dụng thực phẩm bổ sung hàng ngày cao nhất (41%) và ưu tiên đưa ra quyết định lựa chọn thực phẩm bổ sung dựa trên thông tin và kiến thức (86%). Tuy nhiên, khi được hỏi về sự tự tin đối với khả năng đưa ra quyết định lựa chọn thực phẩm bổ sung phù hợp của bản thân, chỉ có 53% bày tỏ sự tự tin so với thế hệ Boomers (66%), thế hệ Gen X (50%) và thế hệ Gen Z (49%).
Kiến thức về thực phẩm bổ sung còn nhiều hạn chế, nhưng an toàn sản phẩm vẫn là ưu tiên hàng đầu

Khảo sát cho thấy tồn tại lỗ hổng lớn về kiến thức liên quan đến thực phẩm bổ sung sức khỏe của người tiêu dùng, với nhiều người không nhận thức được hậu quả của việc tiêu thụ quá liều thực phẩm bổ sung. Ví dụ, đối với các loại vitamin C, canxi và vitamin D, tỷ lệ người Việt không biết đến tác hại của việc tiêu thụ quá mức chiếm hơn một nửa (54%) tổng số người tham gia khảo sát.

Mặc dù có sự hạn chế về kiến thức, quyết định mua hàng của người tiêu dùng Việt Nam vẫn được định hướng bởi các yếu tố như tính an toàn và hiệu quả của sản phẩm (48%), khuyến nghị của chuyên gia chăm sóc sức khỏe (45%) và chứng nhận chất lượng của sản phẩm (38%). Niềm tin vào thương hiệu cũng là một yếu tố ảnh hưởng quan trọng, có 98% người tiêu dùng Việt tham gia khảo sát cho biết điều này ảnh hưởng đến quyết định mua hàng của họ.

"Khi người tiêu dùng ngày càng chủ động trong việc chăm sóc sức khỏe và thể chất, điều quan trọng là họ cần có nguồn thông tin đáng tin cậy về việc sử dụng đúng cách và lợi ích của thực phẩm bổ sung. Khi đứng trước nhiều lựa chọn, hãy dành thời gian tìm hiểu về mức độ kiểm nghiệm thành phần, chứng nhận từ bên thứ ba và sự minh bạch trong quy trình sản xuất của thương hiệu. Việc lựa chọn nguồn nguyên liệu là một yếu tố then chốt để đảm bảo thực phẩm bổ sung được sản xuất với sự cẩn trọng tối đa, đảm bảo chất lượng cao, tính nhất quán và khả năng truy xuất nguồn gốc", ông Harms cho biết thêm.

Tập trung vào chăm sóc sức khỏe dự phòng góp phần thúc đẩy tiêu thụ thực phẩm bổ sung

Đa số người Việt Nam tham gia khảo sát (92%) nhấn mạnh rằng chăm sóc sức khỏe dự phòng rất quan trọng đối với sức khỏe, và nhiều người trong số đó đang thực hiện các bước để cải thiện sức khỏe. Các hoạt động phổ biến nhất bao gồm lựa chọn thực phẩm lành mạnh hơn (57%), kiểm tra sức khỏe định kỳ (56%) và sử dụng thực phẩm bổ sung (55%).

Tuy nhiên, mặc cho những nỗ lực này, chỉ có hơn một nửa người tham gia khảo sát (53%) cảm thấy lạc quan về việc đạt được các mục tiêu sức khỏe. Người tiêu dùng thuộc thế hệ Bommers (59%) tự tin nhất trong việc đạt được các mục tiêu về sức khỏe so với thế hệ Millennials (56%), thế hệ Gen X (51%) và thế hệ Gen Z (50%).

Ông Vũ Văn Thắng, Tổng Giám Đốc Herbalife Việt Nam và Campuchia, cho biết: "Kiến thức dinh dưỡng đóng vai trò vô cùng quan trọng giúp người tiêu dùng biết cách lựa chọn và sử dụng những sản phẩm dinh dưỡng phù hợp. Đây là lý do tại sao Herbalife Việt Nam luôn tích cực trong việc hợp tác cùng nhiều tổ chức uy tín thực hiện nhiều chương trình truyền thông, huấn luyện dinh dưỡng cho cộng đồng, góp phần giúp người tiêu dùng được trang bị những thông tin, kiến thức và hướng dẫn dựa trên nền tảng khoa học để biết cách lựa chọn dinh dưỡng khoa học phù hợp với nhu cầu cá nhân. Chúng tôi cam kết tiếp tục hỗ trợ nhiều người xây dựng nền tảng thói quen lành mạnh và tiếp sức họ trên hành trình hướng tới cuộc sống ngày càng khoẻ mạnh hơn"

Hướng dẫn mua sản phẩm của Herbalife

Sản phẩm của Herbalife chỉ được phân phối độc quyền thông qua những Thành Viên Độc Lập của Công ty. Để tìm hiểu thêm về các sản phẩm của Herbalife, xin vui lòng liên hệ:
Hotline: +84-28-38279191
Email: dichvuthanhvien@herbalife.com
Website: https://www.Herbalife.com/vi-vn/footer/contact-us
Phương Đài
Mỗi độ thu về, thị trường bánh trung thu lại trở nên sôi động hơn bao giờ hết. Bên cạnh các thương hiệu lớn với quy trình sản xuất được kiểm định chặt chẽ, một xu hướng mới nổi lên mạnh mẽ trong những năm gần đây: bánh trung thu handmade.

Với lời quảng cáo hấp dẫn về "sự tươi ngon", "nguyên liệu tự nhiên" hay "hương vị độc đáo", loại bánh này nhanh chóng chiếm được cảm tình của nhiều người tiêu dùng. Tuy nhiên, đằng sau lớp vỏ mộc mạc ấy là những nguy cơ tiềm ẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm mà không phải ai cũng nhận thức được.

Bùng nổ không kiểm soát: Nỗi lo từ quy trình sản xuất

Không giống như các doanh nghiệp sản xuất bánh chuyên nghiệp phải tuân thủ hàng loạt quy định nghiêm ngặt của Bộ Y tế và Cục An toàn thực phẩm, các cơ sở sản xuất bánh trung thu handmade thường hoạt động theo mô hình cá nhân hoặc hộ gia đình nhỏ lẻ. Điều này dẫn đến sự thiếu hụt trầm trọng trong việc kiểm soát chất lượng ở mọi khâu:

Vệ sinh nơi sản xuất: Nhiều cơ sở sản xuất bánh handmade được thực hiện ngay tại nhà riêng, với không gian, dụng cụ, và quy trình chế biến không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh. Bánh được làm trong môi trường không được tiệt trùng, dễ bị nhiễm khuẩn từ bụi bẩn, côn trùng, hoặc các nguồn ô nhiễm khác.

Nguồn gốc nguyên liệu: Đây là một trong những điểm mù lớn nhất. Người bán thường chỉ cam kết miệng về "nguyên liệu sạch", "tự nhiên" nhưng không thể cung cấp được giấy tờ chứng minh nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Các loại nhân bánh như đậu xanh, hạt sen, hay thậm chí là các loại mứt, lạp xưởng có thể được mua từ những nguồn trôi nổi, kém chất lượng, chứa hóa chất bảo quản hoặc phẩm màu công nghiệp vượt ngưỡng cho phép.

Phụ gia và chất bảo quản: Để kéo dài thời gian sử dụng, một số người làm bánh handmade thiếu lương tâm có thể lén lút sử dụng các loại chất bảo quản không rõ nguồn gốc. Những hóa chất này, nếu không được kiểm soát chặt chẽ, có thể gây hại cho sức khỏe người tiêu dùng, từ các triệu chứng cấp tính như rối loạn tiêu hóa đến những nguy cơ lâu dài như tổn thương gan, thận.

Hạn sử dụng "mơ hồ" và nguy cơ nấm mốc

Thời hạn sử dụng của bánh trung thu handmade là một vấn đề đáng báo động. Trong khi bánh của các thương hiệu lớn có thể để được 1-2 tháng nhờ quy trình đóng gói hút chân không và sử dụng các chất bảo quản được cấp phép, thì bánh handmade thường chỉ có thể bảo quản trong 5-7 ngày. Tuy nhiên, vì lợi nhuận, nhiều người bán đã cố tình kéo dài thời hạn này, hoặc không ghi rõ ngày sản xuất và hạn sử dụng.

Bánh trung thu handmade thường không sử dụng chất bảo quản hoặc sử dụng rất ít. Điều này khiến bánh rất dễ bị nấm mốc, đặc biệt là trong điều kiện thời tiết nóng ẩm của Việt Nam. Nấm mốc không chỉ làm hỏng hương vị của bánh mà còn sản sinh ra các loại độc tố, trong đó có Aflatoxin, một chất gây ung thư cực mạnh. Dù đã nướng chín, bánh vẫn có thể bị nhiễm nấm mốc nếu quy trình bảo quản, đóng gói không đảm bảo.

Lời khuyên cho người tiêu dùng thông thái

Bánh trung thu handmade mang lại sự lựa chọn phong phú cho người tiêu dùng, nhưng sự thiếu kiểm soát đã biến chúng thành một "lát cắt" đầy rủi ro trên thị trường. Để tự bảo vệ sức khỏe của bản thân và gia đình, người tiêu dùng cần trở nên thông thái hơn:

Lựa chọn người bán uy tín: Chỉ mua bánh của những người bán có địa chỉ rõ ràng, được nhiều người tin tưởng hoặc đã có thương hiệu nhất định trên mạng xã hội. Yêu cầu họ cung cấp thông tin chi tiết về nguyên liệu và quy trình làm bánh.

Quan sát và kiểm tra kỹ lưỡng: Trước khi mua, hãy kiểm tra kỹ ngoại hình của bánh. Bánh tươi ngon có màu sắc tự nhiên, không có dấu hiệu nấm mốc hay mùi lạ. Hãy hỏi rõ về ngày sản xuất và hạn sử dụng.

Ưu tiên thương hiệu lớn: Nếu không thể kiểm chứng được nguồn gốc của bánh handmade, hãy quay lại với các thương hiệu lớn, có uy tín trên thị trường. Bánh của họ tuy có thể ít độc đáo hơn về hình thức nhưng lại đảm bảo tuyệt đối về mặt an toàn thực phẩm.

Theo Sở Hữu Trí Tuệ
HIV/AIDS có xu hướng trẻ hóa và tập trung mạnh trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM). Nhóm tuổi 16 - 29 chiếm 37,7% và 30 - 39 tuổi chiếm 31,5% số ca nhiễm mới. Kỳ thị vẫn là rào cản trong tiếp cận và duy trì điều trị HIV.

Các chuyên gia cùng người trong cuộc đã chia sẻ rất nhiều trong chương trình "Thúc đẩy phối hợp liên ngành y tế - báo chí - cộng đồng truyền thông về HIV/AIDS khoa học và không kỳ thị" diễn ra vào ngày 13/9 tại TP.HCM. Chương trình đã cập nhật các tiến bộ trong kiểm soát dịch HIV và phân tích sâu sắc thực trạng kỳ thị liên quan đến HIV tại Việt Nam.

Nói thật “tôi mắc HIV” rồi họ cũng để mình sống tốt!

Phát hiện mắc HIV từ năm 1999, thay vì che giấu, chị Đinh Hoàng Châu Bảo đến từ Bến Tre vượt qua kỳ thị để thành tiếng nói truyền cảm hứng cho cộng đồng.Phát hiện mắc HIV từ năm 1999, thay vì che giấu, chị Đinh Hoàng Châu Bảo đến từ Bến Tre vượt qua kỳ thị để thành tiếng nói truyền cảm hứng cho cộng đồng

“27 năm sống cùng HIV, những năm đầu nhiễm bệnh, khoảng 2004 và 2010, việc tiếp cận thuốc điều trị HIV ở địa phương còn vô vàn khó khăn, nguồn cung khan hiếm, chi phí đắt đỏ. Những lúc không có thuốc, tôi tự giữ chế độ ăn uống lành mạnh và hy vọng ngày nào đó sẽ được điều trị bệnh ổn định hơn.

Ký ức đau đớn nhất với tôi là khi mang thai con đầu lòng, bệnh viện địa phương từ chối mổ vì tôi mang HIV. Trong tuyệt vọng, tôi quyết định lên Bệnh viện Từ Dũ (TP.HCM)”, chị Châu Bảo nhớ lại những biến cố của cuộc đời mình.

Tại bệnh viện, chị được tham gia chương trình phòng ngừa lây nhiễm HIV từ mẹ - con nên con gái chị chào đời, âm tính với HIV.Khi biết mình bị lây HIV từ người chồng nghiện ma túy, chị Châu Bảo chọn sống không che giấu căn bệnh của mình

Khi biết mình bị lây HIV từ người chồng nghiện ma túy, chị Châu Bảo chọn sống không che giấu căn bệnh của mình: "Người ta biết, rồi họ cũng để mình sống thôi. Tôi vẫn buôn bán, sinh hoạt thường ngày, rồi trở thành người chia sẻ kinh nghiệm, nâng đỡ người cùng cảnh ngộ", chị Châu Bảo tươi cười, chia sẻ.

Tuy nhiên, hành trình ấy cũng có những ngày vô cùng đen tối. Con gái chị, dù âm tính với HIV, nhưng cũng không ít lần từng bị hàng xóm và thậm chí cả nhân viên y tế địa phương hiểu lầm. Có thời điểm, người mẹ phải cầm giấy xác nhận kết quả âm tính, in hàng chục bản phát cho mọi người để chứng minh điều đó.

"HIV không phải là 'án tử', điều nguy hiểm nhất không phải là virus, mà là sự kỳ thị," chị Châu Bảo hy vọng.

Cho đến nay, kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV vẫn khá phổ biến. Nghiên cứu Stigma Index 2020 - 2021 tại Việt Nam đã chỉ ra rằng sự kỳ thị này tạo nên rào cản đáng kể cho việc tiếp cận và duy trì điều trị, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người sống chung với HIV (PLHIV).

Nghiên cứu này được thực hiện bởi nhóm Mạng lưới Người sống chung với HIV tại Việt Nam (Vietnam Network of People Living with HIV), Tổ chức The Partnership for Health Advancement in Vietnam, Đại học Y tế Công cộng Hà Nội.

Theo nghiên cứu, 12,9% PLHIV đã trải qua kỳ thị hoặc phân biệt đối xử trong cộng đồng do tình trạng HIV của họ trong 12 tháng trước khảo sát. Bao gồm bị nói xấu (7%), bị quấy rối bằng lời nói (6,2%) và bị gia đình nói xấu (5,1%).Việt Nam cung cấp dịch vụ tư vấn và xét nghiệm HIV cho hơn 2 triệu lượt người mỗi năm

Trong các cơ sở y tế, 24,2% người được khảo sát báo cáo trải qua ít nhất một hình thức phân biệt đối xử khi tìm kiếm dịch vụ HIV trong 12 tháng trước đó. Các hình thức phổ biến nhất là bị lạm dụng lời nói (13,8%) và bị khuyên không nên quan hệ tình dục do tình trạng HIV (13,3%).

Kỳ thị nội tại (tự kỳ thị) là một vấn đề nghiêm trọng, với 37% cảm thấy tội lỗi, 42% cảm thấy vô dụng, 41% xấu hổ và 39% cảm thấy "dơ bẩn". 12% PLHIV đã chọn không tìm kiếm dịch vụ chăm sóc sức khỏe trong 12 tháng.

Mặc dù có các chính sách và luật pháp để bảo vệ quyền của PLHIV, gần một nửa số người tham gia (45%) không biết về các luật này. Các vấn đề về bảo mật thông tin, đặc biệt là khi sử dụng Bảo hiểm y tế (BHYT) cũng là mối lo ngại lớn, với hơn một nửa số người được hỏi bày tỏ sự không chắc chắn về việc hồ sơ y tế của họ có được giữ bí mật hay không.

Ông Tống Văn Nam - Giám đốc Doanh nghiệp xã hội Kết nối Trẻ, chia sẻ: "Các số liệu từ Stigma Index 2020 cho thấy tình trạng kỳ thị tại Việt Nam không những chưa giảm mà còn có dấu hiệu gia tăng ở một số khía cạnh. Người thiếu kiến thức thường sợ hãi, né tránh, thậm chí bỏ chạy khi nghe đến HIV. Chính sự sợ hãi này là nguồn gốc của kỳ thị."

HIV nên được xem là bệnh mạn tính

Theo BS Nguyễn Tấn Thủ, Ủy viên ban chấp hành Hội Phòng chống HIV/AIDS TP.HCM, tính đến tháng 6/2025, số liệu tích lũy ước tính cả nước có 267.455 người nhiễm HIV, trong đó 250.496 người còn sống. Trong 6 tháng đầu năm 2025, 5.120 ca nhiễm HIV mới được phát hiện. Năm 2024, cả nước ghi nhận hơn 13.000 trường hợp HIV mới, giảm 56% so với năm 2010.BS Nguyễn Tấn Thủ, Ủy viên ban chấp hành Hội Phòng chống HIV/AIDS TP.HCM, chia sẻ khoảng 70% ca nhiễm HIV mới hằng năm thuộc nhóm tuổi từ 16 đến 40.

Riêng TPHCM, theo Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật TP.HCM (HCDC), 89.412 trường hợp nhiễm HIV đã được phát hiện, 14.418 người tử vong và 53.337 người đang được quản lý y tế.

“Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể trong mục tiêu 95 - 95 - 95 toàn cầu: 91,9% người nhiễm HIV biết tình trạng của mình, 75,0% đang điều trị ARV và 96,0% người điều trị ARV đạt tải lượng virus dưới ngưỡng ức chế. TP.HCM đã đạt kết quả ấn tượng: khoảng 95% biết tình trạng nhiễm HIV, 98% vào điều trị ARV và trên 95% đạt tải lượng virus ức chế.

Mặc dù số ca nhiễm mới có xu hướng giảm nhưng 59% ca nhiễm HIV mới vẫn tập trung ở nhóm nguy cơ cao: quan hệ tình dục đồng giới - MSM, phụ nữ chuyển giới, người hành nghề mại dâm, tiêm chích ma túy và bạn tính của người nhiễm”, BS Thủ nói.

Đáng chú ý, BS Thủ cho biết, khoảng 70% ca nhiễm mới hằng năm thuộc nhóm tuổi từ 16 đến 40. Đường lây truyền chính đã chuyển từ tiêm chích ma túy sang quan hệ tình dục không an toàn. Giới trẻ thiếu kiểm soát hành vi, tỷ lệ sử dụng bao cao su thấp, lại có xu hướng quan hệ với nhiều bạn tình hoặc sử dụng chất kích thích.Việt Nam, từng bị đe dọa bởi nguy cơ bùng phát dịch, được quốc tế công nhận là một trong những mô hình phòng chống HIV/AIDS thành công nhất

Theo Bộ Y tế, HIV hiện được coi là bệnh mạn tính có thể kiểm soát, người nhiễm nếu tuân thủ phác đồ ARV có thể "khỏi bệnh chức năng", duy trì sinh hoạt và tuổi thọ như người bình thường, giảm áp lực bệnh tật cho người bệnh, hướng tới chấm dứt dịch AIDS vào năm 2030.

Các hoạt động can thiệp như điều trị ARV đã bao phủ 182.882 người (tính đến 30/9/2024) và điều trị dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP) đã tiếp cận 71.580 khách hàng trong năm 2024, với khoảng 80,4% khách hàng PrEP là MSM.

Đặc biệt, những năm gần đây, ngành y tế đẩy mạnh truyền thông HIV cho nhóm dân số trẻ. Nếu trước đây, giáo dục về HIV chỉ bắt đầu ở bậc đại học, thì nay đã đưa xuống cấp ba, thậm chí cấp hai. Thực tế, đã có ca nhiễm HIV được ghi nhận ở độ tuổi 15-16, cho thấy các em có thể bắt đầu hành vi tình dục không an toàn từ rất sớm.

Bác sĩ Thủ cho rằng giải pháp bền vững là tích hợp giáo dục giới tính, phòng tránh bệnh tật và mang thai ngoài ý muốn ngay từ bậc học đường, với sự tham gia của học sinh, gia đình và y tế.

Theo Khoa Học Phổ Thông
Tham dự hội thảo “TP.HCM mở rộng - cơ hội an cư cho người trẻ” do báo Thanh tra vừa tổ chức mới đây, các chuyên gia bất động sản, nhà hoạch định đô thị, đại diện cơ quan quản lý chính sách, ngân hàng và tổ chức tài chính, đã cùng tháo gỡ vướng mắc giúp người trẻ thu nhập 20 triệu đồng/tháng có thể mua căn nhà đầu tiên.

Theo các khảo sát mới nhất, giá căn hộ trung bình tại TP.HCM hiện khoảng 89 triệu đồng/m². Một căn hộ 60–70 m² có giá 5–6 tỷ đồng. Trong khi đó, thu nhập bình quân đầu người mới đạt 16,4 triệu đồng/tháng. Ngay cả với mức lương 20 triệu, việc mua nhà vẫn là hành trình kéo dài hàng chục năm nếu chỉ dựa vào tiết kiệm.

Các chuyên gia nhận định, mấu chốt không còn là “thắt lưng buộc bụng” mà là tận dụng đòn bẩy tài chính hợp lý, đặc biệt khi lãi suất vay mua nhà đang giảm.Các bạn trẻ đến hội thảo “TP HCM mở rộng - Cơ hội an cư cho người trẻ”

Lãi suất mua nhà giảm

Tại hội thảo, bà Trần Thị Ngọc Liên – Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Khu vực 2 – cho biết từ đầu 2025 đến nay, lãi suất cho vay mua nhà đã giảm 2,3% so với thời điểm ban đầu. Hiện mức lãi suất ưu đãi với người mua nhà ở xã hội chỉ còn 5,9%/năm, đối với chủ đầu tư là 6,4%/năm, thấp hơn nhiều so với lãi suất vay thông thường.

Bà Liên cho biết, một số ngân hàng thương mại đang triển khai gói vay dài hạn đối với người trẻ dưới 35 tuổi từ 35 – 50 năm, với lãi suất cố định 3,99–9,99%/năm tùy thời kỳ. Tỷ lệ cho vay có thể lên đến 70–90% giá trị căn hộ. Đây là bước tiến lớn, giúp người trẻ có thể giảm áp lực trả nợ ban đầu và duy trì được sự ổn định tài chính.

Đáng chú ý, Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu các tổ chức tín dụng ưu tiên vốn cho nhu cầu ở thực, phát triển nhà ở xã hội, hạn chế đầu cơ; đồng thời triển khai gói tín dụng 145.000 tỷ đồng cho nhà ở xã hội và công nhân. Điều này đồng nghĩa với việc người trẻ lần đầu mua nhà sẽ được tiếp cận nguồn vốn ưu đãi dễ dàng hơn.Bà Trần Thị Ngọc Liên, Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Khu vực 2

Ngân hàng không chỉ là nơi cho vay mà còn là “cố vấn tài chính”

Các chuyên gia tài chính tại hội thảo cho rằng, thu nhập 20 triệu đồng/tháng không phải là “án tử” với giấc mơ mua nhà, nếu biết áp dụng đúng nguyên tắc vay.

TS Châu Đình Linh cho rằng, nguyên tắc vàng là: tổng tiền gốc và lãi hàng tháng không vượt quá 40–50% thu nhập. Với mức lương 20 triệu, người vay nên cân nhắc khoản trả nợ tối đa khoảng 8–10 triệu đồng/tháng. Đồng thời nên lựa chọn phân khúc bất động sản phù hợp với khả năng, ưu tiên vay lãi cố định càng dài càng tốt, thời gian dài hạn khoảng 35 năm.

TS Châu Đình Linh lưu ý: người trẻ cần vốn tự có ít nhất 30% giá trị căn nhà, song nếu có thể đạt mức 50% thì càng an toàn. Ngoài ra, nên lập quỹ dự phòng tương đương 6 tháng trả nợ, để tránh rơi vào cảnh vỡ kế hoạch khi biến cố thu nhập xảy ra.

Theo bà Trần Thị Ngọc Liên, ngân hàng ngày nay không chỉ dừng lại ở việc cung cấp vốn vay, mà còn cần trở thành người đồng hành của khách hàng trẻ. Ngân hàng phải tư vấn gói vay phù hợp, cảnh báo rủi ro, đưa ra phương án cơ cấu nợ và ân hạn, thậm chí hỗ trợ kế hoạch chi tiêu cá nhân. Khi người trẻ an cư thành công, ngân hàng cũng xây dựng được mối quan hệ gắn bó lâu dài

Một số ngân hàng đã triển khai gói tài chính ba bên: ngân hàng – chủ đầu tư – khách hàng. Theo đó, chủ đầu tư cam kết tiến độ thanh toán linh hoạt, ngân hàng cung cấp lãi suất cố định dài hạn, còn người vay chỉ cần chuẩn bị vốn ban đầu vừa phải. Mô hình này giúp giảm đáng kể áp lực tài chính trong giai đoạn đầu.

Dưới góc nhìn của ngân hàng, ông Huỳnh Trung Minh, Giám đốc Ngân hàng Bảo hiểm và Phát triển đối tác liên kết HDBank, ở hiện tại nếu thu nhập 20 triệu/tháng, người trẻ hoàn toàn có thể mua nhà vì có đòn bẩy tài chính thông minh.

"Nếu cần 3 tỉ đồng để mua căn nhà, tôi sẽ vay 3,5 tỉ đồng. Trong đó, số tiền 500 triệu đồng để phòng ngừa các trường hợp ốm đau, hoặc dự phòng trả nợ trong 6 tháng nếu thu nhập có biến động.

Số tiền dư là số an toàn nhưng ít người phát hiện ra điều đó. Xuất phát điểm có thể chưa cao nên các bạn trẻ cần có giải pháp để nâng cao. Nếu biết cách dùng đòn bẩy tài chính thông minh sẽ không bao giờ phải cày quần quật để trả nợ, không bóp nghẹt khao khát vươn lên", ông Huỳnh Trung Minh nói.Các đại biểu tham dự hội thảo

Bà Đinh Thị Thu Thảo, Ngân hàng ACB, chia sẻ: ACB hiện triển khai gói vay “Ngôi nhà đầu tiên” với mức hỗ trợ đến 90% giá trị căn hộ, lãi suất chỉ từ 5 – 5,5%/năm, thời hạn vay tối đa 30 năm. Với thu nhập 20 triệu đồng, khách hàng có thể dành khoảng 11 triệu đồng/tháng để trả nợ.

Ngoài ra, ACB còn cung cấp gói tài chính bổ trợ như thấu chi tiêu dùng, thẻ tín dụng miễn lãi 45–55 ngày, giúp khách hàng quản lý chi tiêu hiệu quả hơn.: “Ngôi nhà đầu tiên không nhất thiết gắn bó cả đời, quan trọng là biết tận dụng đòn bẩy tài chính đúng cách để từng bước nâng cấp chỗ ở theo thu nhập”, bà Thảo nhấn mạnh.

Theo Khoa Học Phổ Thông

* Trang Thông tin Điện tử Tổng hợp
Giấy phép số 45/GP-STTTT
Chịu trách nhiệm nội dung: Nhà báo Hương Nhu
Ghi rõ nguồn: giadinhtieudung.vn khi lấy thông tin từ trang này

* Bản quyền thuộc HL Media
Văn phòng: Đường số 9, khu đô thị Sala,
Thành phố Thủ Đức, TP.HCM
Email: giadinhtieudung@gmail.com